Đánh giá Lê Hoằng Mưu

Tác giả Nguyễn Liên Phong trong Điếu cổ hạ kim thi tập (1915) đã ca ngợi Lê Hoàng Mưu như sau:

Khen bấy thầy Mưu dạng mỹ miều,Có khoa ngôn ngữ nết không kiêu.Điển Tòa thuở nọ công siêng nhọc,Nông Cổ ngày nay bút dệt thêu.Tuổi hãy xuân xanh khuôn phép đủ,Phước nhờ đầu bạc đắp vun nhiều.Từ đây báo quán thêm khong ngợi,Rảng rảng như chuông cả tiếng kêu.

Đánh giá về sự nghiệp văn chương của ông, trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam có đoạn:

Lê Hoằng Mưu là một nhà báo kỳ cựu, một nhà văn tiên phong miền Nam, đương thời còn nổi tiếng hơn cả Trương Duy Toản, Nguyễn Chánh Sắt... Tiểu thuyết của ông hồi đó "viết ra thiệt nhiều và đều bán chạy như tôm tươi giữa chợ buổi sớm... Ông đã có cái vinh dự tối cao của kẻ đàn anh ăn bước trước mà lại có tài hoa lỗi lạc", như Lãng Tử viết trên báo Phụ nữ Tân văn[7].

Và trong Từ điển văn học (bộ mới):

Lê Hoằng Mưu là nhà văn đi trước thời đại, là một ngòi bút viết tiểu thuyết khá độc đáo. Chịu ảnh hưởng của cả hai luồng văn chương Trung Hoa và Âu Mỹ thuở ấy, nhưng ông tìm được cho mình một hướng đi chủ động: không bị chủ đề đạo lý hoàn toàn chi phối, mà từ rất sớm đã biết khơi sâu vào mặt trái của đời sống, dựng lên những cốt truyện khác thường,...lựa chọn những mẫu người có thể nói là "tai tiếng" làm đối tượng cho tác phẩm. Chẳng hạn như cốt truyện "Hà Hương phong nguyệt"...Về nghệ thuật, có một bước tiến ngày càng rõ trong bút pháp viết truyện của Lê Hoẳng Mưu. Từ cách viết chương hồi ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc trong "Tô Huệ Nhi ngoại sử" đến cách viết ngả hẳn sang kết cấu tiểu thuyết phương Tây trong "Người bán ngọc"...Có thể nói Lê Hoằng Mưu là một trường hợp độc xuất trong dòng tiểu thuyết quốc ngữ miền Nam trong vài chục năm đầu của thế kỷ 20, biết phá bỏ những thói quen và bứt nhanh lên khỏi truyền thống. đồng thời có cái nhìn sắc bén vào xã hội thành thị Việt Nam trong buổi giao thời...Ông đã tạo dựng được một vị trí hiếm nhà văn đương thời nào sánh kịp. như tuần báo Mai năm 1939 nhận xét: "Buổi ấy ông là người có "tài sắc" nên tiếng tăm nổi dậy như cồn. Lời văn cũng như lý luận đã lôi cuốn, hấp dẫn, chinh phục tất cả xứ Nam Kỳ và cả thế hệ thanh niên hồi đó"[8].